Mạnh mẽ như Garnett, anh ấy chỉ được chọn với lượt chọn tổng thể thứ năm trong bản dự thảo. Bốn người trước mặt hắn là ai? Thành tựu của họ là gì?
Là một trong những tiền đạo quyền lực nhất trong lịch sử NBA, Kevin Garnett đã có một sự nghiệp vô cùng huyền thoại, và sự xuất hiện của anh cũng có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng, bởi chính tài năng vô song của anh đã khiến nhiều đội bóng NBA bảo thủ bắt đầu ngày càng chú ý nhiều hơn đến các cầu thủ trung học. Điều này đã mở đường cho Kobe Bryant, Tracy McGrady, LeBron James và những người khác gia nhập NBA. Tuy nhiên, khi bước vào NBA năm đó, anh chỉ được chọn với lượt chọn tổng thể thứ 5, vậy những cầu thủ trước anh là ai? Thành tựu nghề nghiệp của họ là gì? Hãy cùng tìm hiểu dưới đây nhé!
Joe Smith
Thống kê nghề nghiệp: 10,9 điểm, 6,4 rebounds, 1 kiến tạo
Lựa chọn nháp: Lựa chọn số 1
Là lựa chọn hàng đầu của lớp tân binh Yuan, Joe Smith đã từng là một ngôi sao tài năng. Anh ấy đến từ Đại học Maryland. Sau khi được Warriors lựa chọn, anh ấy có thể đóng góp 15,3 điểm, 8,7 rebound, 1 kiến tạo, 1 cướp và 1,6 cản phá trong mùa giải tân binh của mình. Trong năm thứ hai trong sự nghiệp, anh cũng có thành tích 18,7 điểm, 8,5 rebound và 1,1 block. Nếu thành tích này được duy trì, ngay cả khi Smith không thể trở thành cầu thủ All-Star, anh ấy vẫn có thể đảm bảo vị trí xuất phát trong bất kỳ đội nào.
Nhưng anh ấy đã làm hoàn toàn ngược lại. Sau khi ký hợp đồng với Timberwolves, họ đã công khai ký nhiều hợp đồng ngắn hạn, nhưng trong nội bộ đã đạt được thỏa thuận rằng họ sẽ nhận được hợp đồng nhiều năm. Sự việc "Hợp đồng âm dương" bùng nổ đã khiến uy tín của anh chạm đáy. Sau đó, Smith bắt đầu đi lang thang liên tục. Trong 16 mùa giải ở NBA, anh đã chơi cho tổng cộng 12 đội bóng khác nhau, trở thành một trong những cầu thủ có nhiều đội vô gia cư nhất lịch sử NBA. Trong suốt sự nghiệp NBA của mình, anh chỉ ghi trung bình 10,9 điểm, 6,4 rebound và 1 kiến tạo mỗi trận. Mặc dù anh ấy là lựa chọn hàng đầu trong lĩnh vực nhập khẩu song song nhưng sự sa sút của anh ấy thật đáng xấu hổ và tất cả đều là lỗi của anh ấy.
Antonio McDyess
Số liệu thống kê trong sự nghiệp: 12 điểm, 7,5 rebounds, 1,3 kiến tạo
Lựa chọn dự thảo: Số 2
Lựa chọn thứ hai năm đó cũng là một ông lớn tốt bụng, McDyess, tiền đạo quyền lực hàng đầu của Đại học Alabama. Sau khi được Nuggets lựa chọn, McDyess đã trở thành tiền đạo quyền lực hàng đầu trong năm thứ hai trong sự nghiệp, ghi trung bình 18,3 điểm, 7,3 rebounds và 1,7 block mỗi trận. Tuy nhiên, do thành tích kém cỏi của đội nên anh đã bị đánh đổi. Nhưng chẳng bao lâu sau, anh đã được Nuggets ký hợp đồng trở lại. Ở lớp 4, dữ liệu của anh ấy tăng lên 21,2 điểm, 10,7 rebounds và 2,3 block. Anh được chọn vào đội thứ ba xuất sắc nhất năm và trở thành nhân vật có thể được xếp vào hàng tiền đạo giỏi nhất.
Ngoài ra, trong mùa giải 2000-01, anh được chọn vào đội All-Star duy nhất trong sự nghiệp với thành tích 20,8 điểm, 12,1 rebounds và 1,5 block. Thật không may, ngay khi sự nghiệp đang trên đà thăng tiến, McDyess lại dính chấn thương đầu gối nghiêm trọng và bỏ lỡ toàn bộ mùa giải 2002–03. Kể từ đó, ở tuổi 28, anh đã trở thành một cầu thủ khởi nghiệp bình thường. Nhưng dù vậy, anh vẫn có thể trở thành một cầu thủ luân chuyển đủ tiêu chuẩn ở Pistons và Spurs. Nếu không gặp chấn thương, có lẽ McDyess đã có thể đạt thành tích cao hơn.
Jerry Stackhouse
Thống kê nghề nghiệp: 16,9 điểm, 3,2 rebounds, 3,3 hỗ trợ
Lựa chọn dự thảo: thứ ba chung cuộc
Sau đó, đó là năm đó Lựa chọn tổng thể thứ ba, Stackhouse, người được coi là hậu vệ xuất sắc nhất năm, cũng đến từ trường Đại học của Bắc Carolina và là một trong những đàn em đáng tự hào nhất của Michael Jordan. Anh cũng thể hiện khả năng ghi bàn tốt ở NCAA nên Stackhouse từng được coi là người kế vị Jordan. Sau khi gia nhập NBA, anh ấy đã có thể đóng góp dữ liệu ở cấp độ 20+4+3 trong hai mùa giải đầu tiên với 76ers. Tuy nhiên, do sự xuất hiện của Allen Iverson, anh đã thất bại trong việc tranh giành quyền lực và bị đồng đội đuổi đi. May mắn thay, sau khi gia nhập Pistons, anh đã có chỗ để thể hiện, ghi trung bình hơn 20 điểm mỗi trận trong 4 mùa giải liên tiếp. Trong mùa giải 2000–01, anh ghi được 29,8 điểm, 3,9 rebound và 5,1 kiến tạo. Trong thời gian thi đấu cho Pistons, anh ấy đã được chọn vào hai đội All-Star.
Tuy nhiên, điều hơi đáng xấu hổ là mặc dù có dữ liệu cá nhân tuyệt vời nhưng thành tích của nhóm Stackhouse lại bị trì trệ. Vì vậy, sau mùa giải 2002–03, anh dần sa sút. Cho dù ở Mavericks, hay sau này là Bucks và Heat, anh ấy chỉ có thể chơi với tư cách là cầu thủ dự bị thứ sáu. Nói chung, anh ấy có năng lực, nhưng anh ấy không phải là hạt nhân của đội. Anh đã chơi 18 năm và ghi trung bình 16,9 điểm, 3,2 rebound và 3,3 kiến tạo mỗi trận. Anh ấy xứng đáng với vị trí top pick nhưng lại chưa đạt được chiều cao như mong đợi, điều này vẫn hơi thất vọng.
Rashid Wallace
Thống kê nghề nghiệp: 14,4 điểm, 6,7 rebounds, 1,8 kiến tạo
Lựa chọn dự thảo: tổng thể thứ tư
Phải nói rằng kỳ dự tuyển năm 1995 thực sự là một bữa tiệc dành cho các tiền đạo quyền lực. Chỉ riêng trong năm lượt chọn hàng đầu, bốn lượt chọn số 4 nổi bật đã được chọn ra. Lựa chọn tổng thể thứ tư là "Thần gầm" Wallace. Mặc dù đã được Bullets lựa chọn nhưng anh ấy đã được gửi đến Trail Blazers sau mùa giải tân binh của mình. Tại đây, anh đã giúp Trail Blazers đạt đến đỉnh cao trong lịch sử đội bóng, đặc biệt là ở các mùa giải 98-99 và 99-00. Họ liên tiếp vào tới Chung kết Western Conference, gây áp lực rất lớn cho các nhà vô địch sau này là Spurs và Lakers. Trong một số mùa giải với Trail Blazers, anh ấy có thể cung cấp đều đặn dữ liệu cấp độ 18 + 8 + 2, khả năng bắn thẳng tay mang tính biểu tượng và khả năng phòng thủ xuất sắc, khiến anh ấy được chọn vào đội All-Star hai lần. Tuy nhiên, lúc đó tâm trạng anh rất tệ. Anh liên tục phạm lỗi kỹ thuật trên sân, thậm chí còn hành động liều lĩnh bên ngoài sân. Anh ta đã khiến Blazers trở nên hỗn loạn và cuối cùng bị đuổi ra ngoài..
Tuy nhiên, Wallace sau đó đã thay đổi cách thức và gia nhập Pistons vào mùa giải 2003-04 và trở thành mảnh ghép cuối cùng. Ở vòng loại trực tiếp, anh ghi trung bình 13 điểm, 7,8 rebounds và 2 block mỗi trận. Anh ta kết thành tình anh em với Ben Wallace, hoàn thành thành công một cuộc phản công của hắc mã và đánh bại Lakers bất khả chiến bại để giành chức vô địch. Sau đó, Wallace đã có hai trải nghiệm All-Star và giúp Pistons trở thành tay chơi thống trị ở Eastern Conference. Nhìn chung, thành tích sự nghiệp của anh khá tốt. Anh ghi trung bình 14,4 điểm, 6,7 rebounds và 1,8 kiến tạo mỗi trận, đồng thời phần thưởng từ chức vô địch khiến anh xứng đáng được chọn thứ tư.